Đó là chia sẻ của PGS.TS Nguyễn Hoàng Long, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế với Báo TNVN nhân Tháng Hành động quốc gia và Ngày Thế giới phòng, chống HIV/AIDS (1/12/2019).
Xin ông cho biết tình hình dịch HIV/AIDS tại Việt Nam hiện nay?
Trong 9 tháng đầu năm 2019, cả nước phát hiện mới 7.779 trường hợp nhiễm HIV, số bệnh nhân chuyển sang giai đoạn AIDS là 2.984, số bệnh nhân tử vong 1.428 trường hợp. Số người mới phát hiện nhiễm HIV tập trung chủ yếu ở độ tuổi 16 - 29 (39,4%) và 30 - 39 (34,3%). Đường lây chủ yếu là quan hệ tình dục không an toàn (65%) và qua đường máu (17%), mẹ sang con 2%, còn lại không có thông tin về đường lây truyền.
Tính đến hết 30/9/2019, cả nước có 215.661 người nhiễm HIV được các tỉnh báo cáo còn sống và 103.616 người nhiễm HIV đã tử vong.
Kết quả giám sát trọng điểm HIV năm 2018 trên nhóm phụ nữ bán dâm (13 tỉnh) và nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) ở 8 tỉnh, tỷ lệ nhiễm HIV nhóm phụ nữ bán dâm là 3,58% và nhóm MSM là 10,78%.
Số liệu phát hiện nhiễm mới nhìn chung không có nhiều thay đổi so với năm 2018. Dịch HIV tập trung chủ yếu ở nam giới (chiếm 75%) và đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy đang có xu hướng giảm, thay vào đó tỷ lệ này trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới đang ngày càng gia tăng và có khả năng sẽ trở thành nhóm chính trong lây nhiễm HIV. Ngoài ra, các nhóm có nguy cơ thấp như nhóm vợ, chồng, bạn tình người nhiễm HIV vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm lây truyền HIV do khó tiếp cận với các dịch vụ tư vấn xét nghiệm và can thiệp dự phòng.
Vây đâu là những khó khăn và thách thức trong công tác phòng, chống HIV/AIDS?
HIV/AIDS hiện là vấn đề sức khỏe công cộng quan trọng, là một trong những nguyên nhân gây gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam. Mỗi năm vẫn có 10.000 trường hợp dương tính HIV mới và 2.000 đến 3.000 trường hợp tử vong do HIV/AIDS, gây tác động rất lớn về sức khỏe, kinh tế - xã hội. Hơn nữa, nhóm người có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV vẫn ở mức cao.
Hiện nay, việc điều phối ARV còn gặp khó khăn bởi đây là giai đoạn chuyển giao thuốc ARV từ nguồn viện trợ sang nguồn BHYT, là năm đầu tiên thực hiện hướng dẫn các tỉnh, thành phố dự trù thuốc ARV nguồn BHYT, kinh nghiệm của cán bộ về dự trù thuốc ARV nguồn BHYT còn hạn chế. Bên cạnh đó, số bệnh nhân HIV/AIDS có thẻ BHYT chưa rõ ràng tại nhiều tỉnh.
Mặc dù dịch HIV/AIDS ở Việt Nam tiếp tục có xu hướng giảm, tuy nhiên vẫn chưa đảm bảo tính bền vững và vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bùng phát nếu chúng ta không tiếp tục có những biện pháp can thiệp mạnh mẽ và hiệu quả. Đáng chú ý là có sự đan xen giữa các hành vi của nhóm người nghiện chích ma túy và nhóm phụ nữ bán dâm, nhóm nam có quan hệ tình dục với nam chuyển giới... trong khi mức độ bao phủ của các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS còn rất hạn chế.
Kinh phí cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS chủ yếu phụ thuộc vào viện trợ quốc tế đang cắt giảm nhanh, trong khi các nguồn tài chính trong nước (NSNN, BHYT) chưa kịp bù đắp thiếu hụt. Do đó các địa phương không có dự án viện trợ quốc tế, nên hoạt động phòng, chống HIV/AIDS gặp nhiều khó khăn.
Nhân lực phòng, chống HIV/AIDS thường xuyên thay đổi trong khi các kỹ năng, phương pháp tiếp cận hiệu quả có tính đặc thù.
Và phương hướng giải quyết các vấn đề này trong những năm tiếp theo, thưa ông?
Tới đây, chúng tôi sẽ tiếp tục đổi mới, mở rộng, nâng cao chất lượng công tác truyền thông, giáo dục về phòng, chống HIV/AIDS; Triển khai dịch vụ điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV cho người có nguy cơ cao, chú trọng điều trị cho vợ, chồng, bạn tình của người nhiễm, MSM, người chuyển giới ở khu vực có nguy cơ lây nhiễm HIV; Đa dạng hóa các dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, cụ thể: xét nghiệm trong cơ sở y tế, xét nghiệm HIV tại cộng đồng, xét nghiệm HIV lưu động và tự xét nghiệm HIV; Mở rộng các phòng xét nghiệm được phép khẳng định HIV, đặc biệt phòng xét nghiệm được phép khẳng định HIV tuyến huyện đảm bảo việc chuyển gửi kết quả xét nghiệm khẳng định HIV dương tính không quá 24 giờ; Mở rộng độ bao phủ dịch vụ điều trị thuốc ARV bền vững, sẵn có và dễ tiếp cận; nâng cao chất lượng dịch vụ điều trị và chăm sóc HIV/AIDS; Nâng cấp hệ thống báo cáo ca bệnh thành hệ thống giám sát ca bệnh; củng cố và hoàn thiện hệ thống quản lý thông tin chương trình phòng, chống HIV/AIDS quốc gia bảo đảm đầy đủ, kịp thời và dễ tiếp cận.
Việt Nam đang mở rộng dự phòng lây nhiễm HIV mới như dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP). Biện pháp này được triển khai cho nhóm đối tượng nào và hiệu quả ra sao?
Từ năm 2017, Cục Phòng, chống HIV/AIDS đã phối hợp với các tổ chức như Path, UNAIDS, WHO triển khai thí điểm điều trị PrEP tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với 10 cơ sở, điều trị cho hơn 1.000 khách hàng có hành vi nguy cơ cao như MSM, chuyển giới nữ… Tháng 9/2018, Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch điều trị dự phòng trước phơi nhiễm bằng thuốc kháng HIV (PrEP) giai đoạn 2018 - 2020. Theo đó, đến cuối năm 2019 sẽ cung cấp cho 5.600 khách hàng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV tại 11 tỉnh có tình hình dịch cao. Tháng 9/2019, Bộ Y tế đã phê duyệt bổ sung 15 tỉnh do dự án Quỹ toàn cầu hỗ trợ cũng tham gia cung cấp dịch vụ PrEP từ cuối năm 2019 và mục tiêu đến cuối năm 2020 triển khai ít nhất ở 26 tỉnh/thành phố với số khách hàng trên 15.000 người. Trong kế hoạch những năm tiếp theo, Cục Phòng, chống HIV/AIDS sẽ tiếp tục mở rộng chương trình PrEP ra các tình/thành phố khác trong cả nước.
Việc điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) là sử dụng thuốc ARV để dự phòng lây nhiễm HIV cho những người chưa nhiễm HIV nhưng có nguy cơ cao nhiễm HIV như: MSM, người chuyển giới nữ, người tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm và những người có nguy cơ cao nhiễm HIV khác (vợ/chồng của người nhiễm HIV chưa được điều trị ARV hay điều trị ARV chưa đạt ngưỡng không phát hiện). Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy PrEP có hiệu quả dự phòng lây nhiễm HIV cao lên tới trên 90% nếu tuân thủ điều trị tốt. Chúng tôi cũng khuyến cáo những người có nguy cơ cao nhiễm HIV thì cần đến các phòng khám có cung cấp dịch vụ PrEP để được đánh giá và chỉ định điều trị dự phòng PrEP.
Xin cảm ơn ông!