Phân tầng điều trị bệnh nhân Covid-19

Hệ thống điều trị bệnh nhân Covid-19 chia thành 3 tầng nhằm đánh giá nguy cơ, xác định nhu cầu điều trị phù hợp, tối ưu hóa nguồn lực cho công tác điều trị.

 

Trước diễn biến phức tạp và ngày một gia tăng ca mắc mới, Bộ Y tế đã ban hành tiêu chí phân loại ở người mắc Covid nhằm đánh giá nguy cơ, xác định nhu cầu điều trị phù hợp và tối ưu hóa nguồn lực cho công tác điều trị.

Ths.BS Nguyễn Trọng Khoa, Phó Cục trưởng Cục Khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết: Việc điều trị cho bệnh nhân COVID-19 được thực hiện theo hệ thống phân tầng với mục tiêu chia nhóm nguy cơ của người bệnh và những yêu cầu điều trị, can thiệp điều trị cho người bệnh để phân bố nguồn lực phù hợp.

Ths.BS Nguyễn Trọng Khoa, Phó Cục trưởng Cục Khám chữa bệnh (Bộ Y tế).

Theo đó, Bộ Y tế đang chia hệ thống điều trị thành 3 tầng: tầng 1 là các cơ sở thu dung điều trị ban đầu, tầng 2 nơi thu dung điều trị cho các trường hợp bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ như mắc các bệnh lý nền, người cao tuổi, phụ nữ mang thai…, tầng 3 là tầng điều trị cho các diễn biến nặng cần các chăm sóc, can thiệp, điều trị chuyên sâu hơn.

Với mỗi tầng như vậy chúng ta sẽ bố trí nguồn lực phù hợp để nâng cao hiệu quả điều trị, như tại tầng 1 sẽ được bố trí lực lượng nhân viên, trang thiết bị phù hợp, không nhất thiết phải có các hệ thống hỗ trợ hô hấp chuyên sâu, hồi sức nặng; Ngược lại, tại tầng 3 sẽ là các trung tâm hồi sức tích cực được trang bị đầy đủ các trang bị hiện đại như ECMO, lọc máu, hệ thống thở oxy… cũng như đội ngũ y bác sĩ chuyên sâu đặc biệt là trong lĩnh vực hồi sức tích cực để đáp ứng nhu cầu điều trị cho bệnh nhân.

“Việc phân tầng vừa đảm bảo phân bổ nguồn lực phù hợp với nhu cầu điều trị của bệnh nhân, đồng thời tối ưu hóa nguồn lực điều trị”, ông Khoa nhấn mạnh”.

Ngày 31/7, Bộ Y tế đã ban hành văn bản số 3646/QĐ-BYT về tiêu chí phân loại nguy cơ người nhiễm SARS-CoV-2. Theo đó, người bệnh được chia làm 4 mức độ:

Mức độ nguy cơ thấp (màu xanh): ​Bệnh nhân < 45 tuổi, không mắc bệnh lý nền (theo danh sách); ​Đã tiêm đủ 2 mũi vaccine trước ngày xét nghiệm dương tính ít nhất 12 ngày; ​Sức khỏe chưa có dấu hiệu bất thường SpO2 từ 97% trở lên

Mức độ nguy cơ trung bình (màu vàng): dành cho BN độ tTuổi từ 46 - 64, không mắc bệnh lý nền (theo danh sách); sức khoẻ có dấu hiệu bất thường như sốt (từ 37,5 độ C trở lên), ho, đau họng, rát họng, đau ngực…; ​SpO2 từ 95% đến 96%; tuổi ≤ 45 tuổi và mắc một trong các bệnh lý nền (theo danh sách).

Mức độ nguy cơ cao (màu cam): dành cho BN độ tuổi từ 65 tuổi trở lên và không mắc bệnh lý nền (theo danh sách); phụ nữ có thai; tTrẻ em dưới 5 tuổi; ​SpO2 từ 93% đến 94%.

Mức độ nguy cơ rất cao (màu đỏ): dành cho BN tuổi từ 65 tuổi trở lên và mắc một trong các bệnh lý nền (theo danh sách); người bệnh trong độ tuổi bất kỳ đang trong tình trạng cấp cứu; ​SpO2 từ 92% trở xuống; nNgười bệnh đang có tình trạng: thở máy đang có ống mở khí quản, liệt tứ chi, đang điều trị hóa xạ trị.

Theo Ths.BS Nguyễn Trọng Khoa, việc đánh giá mức độ nguy cơ cần được thực hiện từ bởi nhân viên y tế và cả bản thân người bệnh.

Đơn cử như đối với người bệnh có độ dưới 45 tuổi, không có bệnh nền thì sẽ được xếp vào nhóm nguy cơ thấp, tuy nhiên cũng không thể chủ quan, cần chủ động tự theo dõi sức khỏe khi có dấu hiệu chuyển nặng cần báo ngay cho nhân viên y tế. “Nhân viên y tế sẽ dựa trên việc đánh giá mức độ nguy cơ của người bệnh sẽ tiến hành hướng dẫn, điều phối để đưa người bệnh đến các cơ sở y tế trên địa bàn phù hợp với mức độ nguy cơ của người bệnh”, ông Khoa nhấn mạnh./.

PV

 

Bình luận

    Chưa có bình luận