Đó là một trong số những cái tên mà Tilo Nadler được dành tặng. Với tình yêu và khát khao bảo vệ linh trưởng, Tilo đã từ bỏ cuộc sống ở Đức, tới Việt Nam để hiện thực hóa tình yêu của mình. Và người vợ của anh - chị Nguyễn Thị Thu Hiền cũng từ bỏ chốn hoa lệ Hà thành, cùng anh về Ninh Bình “nằm rừng”.
Nỗi ám ảnh của kẻ săn thú hoang dã
Trong suốt một phần tư thế kỷ qua, cặp vợ chồng Hiền - Tilo đã gắn mình với Trung tâm cứu hộ linh trưởng nguy cấp rừng quốc gia Cúc Phương (EPRC), Ninh Bình - nơi nuôi dưỡng hàng trăm loài động vật quý hiếm của Việt Nam. Nếu không biết trước, khó ai có thể hình dung người đàn ông Đức có khuôn mặt đỏ, bộ râu rậm với giọng nói bộc trực, thẳng thắn ấy đã 25 năm lăn lộn giữa đất khách quê người để canh rừng, cứu từng con vật đáng thương từ những kẻ săn bắn.
Vốn là thạc sĩ điện lạnh, nhưng vì có sở thích đặc biệt với động vật hoang dã (ĐVHD), đặc biệt là loài voọc, Tilo đã xin làm cộng tác viên cho Hội Động vật Frankfurt (tổ chức cứu hộ và bảo vệ động vật lâu đời nhất trên thế giới, hoạt động ở 30 quốc gia) để có thời gian nghiên cứu về ĐVHD. Từ tình yêu ấy, Tilo đã trở thành chuyên gia về linh trưởng. Năm 1991, anh nhận nhiệm vụ sang Việt Nam làm phim để xác định thông tin loài voọc mông trắng sau 57 năm tái phát hiện ở Việt Nam. Trước đó, voọc mông trắng được cho là tuyệt chủng ngoài tự nhiên.
Đến Việt Nam, sau nhiều tháng ròng rã trong rừng tìm voọc, Tilo đã nhìn thấy voọc mông trắng. “Nhưng đó không phải là con voọc đang nhào lộn trong rừng, mà là con voọc bị thương đang bị nhốt trong lồng đem bán ngoài chợ và sắp trở thành món ăn cho con người” - Tilo kể về lần đầu anh phát hiện hai con voọc mông trắng ở chợ Nho Quan vào năm 1993, cách Vườn quốc gia Cúc Phương khoảng 15km.
Một năm sau ngày Tilo giải cứu hai con voọc mông trắng, Hội Động vật Frankfurt kêu gọi các chuyên gia thực hiện dự án bảo tồn voọc ở Việt Nam. Tilo quyết định nghỉ việc ở một Viện Nghiên cứu khoa học kỹ thuật của CHLB Đức, ký hợp đồng 3 năm với Hội để có cơ hội bảo vệ loài linh trưởng. Khi ấy, Tilo 52 tuổi. Kể từ đó, anh trở thành nỗi ám ảnh đối với những kẻ săn thú hoang dã trong Vườn quốc gia.
Chiến lược của Hội Động vật Frankfurt thường chỉ bảo vệ tại chỗ (nguyên vị) và các dự án của Hội chỉ hoạt động với thời gian 3 năm. Nghĩa là theo kế hoạch, Tilo cũng chỉ ở Việt Nam 3 năm để nghiên cứu về linh trưởng. Thế nhưng khi dự án hoàn thành, Tilo vẫn chưa thể rời Việt Nam. Anh cho hay: “Khi gặp hai cá thể voọc mông trắng bị thương - bạn bị cắt đuôi, bạn bị cắt chân, mất mắt nên phải chăm nuôi cho các bạn ấy, chứ nếu thả các bạn ấy vào tự nhiên thì chúng không thể sống được, chưa kể nguy cơ bị săn bắn rất cao; đồng thời do môi trường sống bị thu hẹp, xé nhỏ bởi công nghiệp, nông nghiệp phát triển và khu dân cư mọc lên nên có nhiều bầy đàn bị cô lập, không có đầy đủ con đực, con cái để sinh sản và linh trưởng sẽ chết vì già. Thực trạng này ở Việt Nam đã “đẻ” ra việc phải xây dựng Trung tâm cứu hộ để đưa những động vật bị thương tích về đây cứu chữa, chăm sóc”. Vậy là năm 1996, sau 3 năm làm việc, thay vì chuyển giao dự án cứu hộ linh trưởng cho phía Việt Nam quản lý, Tilo đã đề nghị ký tiếp hợp đồng để ông ở lại Cúc Phương thêm 3 năm, rồi 5 năm... Cứ thế, thấm thoắt đã 25 năm ông làm “hiệp sĩ voọc”. Ngần ấy năm, ngoài số kinh phí Hội tài trợ (50%), phần còn lại, Tilo phải tự đi gây quỹ để duy trì hoạt động cứu chữa, chăm sóc, nuôi nấng linh trưởng... của Trung tâm.
Từ hai con voọc mông trắng ban đầu, đến nay, Trung tâm đã trở thành một trong những trung tâm hàng đầu thế giới. Ở Việt Nam có 25 loài linh trưởng, thì Trung tâm hiện cứu hộ 15 loài linh trưởng nằm trong nhóm quý hiếm cần phải cứu hộ gấp, nhất là 4 loài đặc hữu (trên toàn thế giới, chỉ Việt Nam mới có). Các cá thể linh trưởng ở đây đều được đặt tên, đánh số, ghi ngày sinh, ngày đưa về rất chi tiết. Sau khi cứu chữa, sinh sản sẽ cho ra môi trường bán tự nhiên rồi hoàn toàn tự nhiên. Với cách làm khoa học, vợ chồng Hiền - Tilo và EPRC đã thành công trong việc tăng số lượng đàn một cách khoa học để giúp quá trình phục hồi linh trưởng.
Không bao giờ từ bỏ tình yêu linh trưởng
Cơ duyên với linh trưởng Việt Nam đã đưa ông đến với tình yêu của đời mình. Ông chia sẻ về lần gặp gỡ người vợ Việt - cô gái gốc Hà Nội vào năm 1993: “Khi đó, Hiền đang là sinh viên năm thứ ba ở Hà Nội. Để rèn luyện ngoại ngữ, Hiền đã làm thêm tại cửa hàng bán đồ mỹ nghệ. Một lần tôi ghé vào mua hàng và nói chuyện với Hiền, thấy Hiền năng động, thích tìm hiểu, khám phá và vốn ngoại ngữ khá tốt nên tôi nhờ Hiền làm phiên dịch cho đoàn”. Lửa gần rơm, họ nhanh chóng bén duyên nhau, bén cả tình yêu đối với việc bảo tồn ĐVHD nói chung và linh trưởng nói riêng. Cưới nhau năm 2000, để tập trung chăm sóc linh trưởng, Hiền đã rời chốn phồn hoa đô thành để định cư ở Cúc Phương.
Theo chồng, Hiền làm đủ mọi việc ở Trung tâm. “Hai vợ chồng vừa làm chủ, vừa làm tớ. Mình là người quản lý, đồng thời cũng là người trực tiếp chăm sóc động vật, vừa là bảo vệ, tự lái xe đi tuần rừng; khi lại nghiên cứu khoa học, đi thực địa...”. Ngôi nhà nhỏ của họ trước đây cũng nằm trong Trung tâm, “để mỗi khi thức dậy, bước ra khỏi cửa là đã có thể chăm sóc cho linh trưởng ngay”, Hiền thổ lộ. Để hỗ trợ tích cực cho chồng, Hiền đã đi học những khóa học ngắn hạn và dự thính ở khoa Sinh trường ĐH Nông nghiệp và ĐH Tổng hợp để có thêm kiến thức về động vật. “Tilo là người thầy vĩ đại của tôi, là người tôi rất khâm phục. Chính anh đã truyền cho tôi tình yêu thương với các loài động vật. Tôi không thể nào quên lần Tilo đã bật khóc khi nhìn thấy một con voọc xám và một con voọc Cát Bà nuôi tại trung tâm bị chết do rắn cắn trong lúc bảo vệ đàn con khi chúng vừa lên chức bố một tuần”, Hiền chia sẻ.
Những vất vả khi làm việc tại Trung tâm cứu hộ, từ việc đi tuần tra rừng 3 - 4 đêm mỗi tuần, tăng cường cho công tác bảo vệ rừng, đang ngủ mà có người gọi vào rừng tiếp viện, hằng ngày thức khuya dậy sớm để chăm sóc voọc, đi tuần rừng đến 4h sáng và 6h phải dậy để đi kiểm tra chuồng trại... không được cặp vợ chồng “hiệp sĩ của rừng già” này tính là khó khăn. Họ quan niệm đó là sự may mắn khi được cống hiến.
Với họ, khó khăn trong những ngày đầu là lực lược kiểm lâm khoảng 18 năm trước đây chưa có một nhận thức, khái niệm về việc cứu hộ động vật. Cho đến giờ, Tilo và Hiền luôn mong muốn lực lượng kiểm lâm được tăng cường thêm quyền hạn để xử lý công việc, bắt giữ người vi phạm. Và khó khăn lâu dài là làm thế nào để cây rừng không bị đốn để rừng không bị thưa đi, khiến động vật không còn ngôi nhà để sống, mất sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Đặc biệt là tình trạng săn bắn, bẫy bắt bằng cái dây nịt - mối nguy cơ cực nguy hiểm cho các vườn quốc gia, khu bảo tồn.
Chợt chị Hiền ngừng lời, đưa mắt nhìn hai con trai đang chơi gần đó, mắt rớm lệ: “Đôi khi thấy tội cho trẻ con. Sinh con, chỉ được 10 tháng tuổi là chúng tôi đã phải đem con gửi bố mẹ để vào rừng. Những lúc con ốm mà mình vẫn phải để con đó đi cứu hộ động vật. Nghe con nói: “Mẹ lại đi nữa à? Em ốm mà mẹ cũng không ở nhà với em”, tôi như bị muối sát vào lòng mà vẫn không thể đừng đi được”.
25 năm qua, chỉ cần nhận tin có con linh trưởng nào bị thương là cặp vợ chồng ấy lập tức lên đường, dù đó là ở nơi đâu. Rời Chương trình Bảo tồn linh trưởng Việt Nam và PRC, chị Hiền cho hay, vợ chồng chị sẽ tiếp tục là cố vấn kỹ thuật cho Chi cục Kiểm lâm Ninh Bình về bảo tồn thiên nhiên, ĐVHD trên địa bàn tỉnh.
“Việt Nam đã cho tôi thứ tài sản giá trị nhất, đó là Hiền và hai đứa con. Tôi muốn dành cả đời mình để sống, làm việc ở Việt Nam. Nếu tôi chết, tôi muốn được chôn tại rừng Cúc Phương này”, Tilo bày tỏ tình yêu sâu sắc với nơi ông chọn ở lại cả cuộc đời.
Cho đến ngày chia tay Chương trình Bảo tồn linh trưởng Việt Nam, trong nghẹn ngào xúc động, Tilo vẫn khẳng định: “Tôi không bao giờ từ bỏ tình yêu và công việc bảo vệ linh trưởng”. /.