Liên kết vùng giúp phát triển kinh tế bền vững

  • 10/08/2023 17:31:07
  • Vân Hồng
  • Kinh tế
  • 0

Việc liên kết vùng mở rộng không gian hoạt động chắc chắn sẽ góp phần giúp các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT) hoạt động hiệu quả hơn, lợi thế hơn nhờ quy mô. Tuy nhiên, câu chuyện liên kết vùng vẫn còn nhiều điều đáng bàn.

 

Phát triển chưa tương xứng với tiềm năng

Việc phát triển mô hình liên kết vùng từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm ở các địa phương đang ngày một phát triển, góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế. Dù có nhiều cải thiện, chất lượng và phạm vi hoạt động liên kết vùng còn chưa tương xứng với yêu cầu và bối cảnh phát triển.

Theo ông Nguyễn Văn Thịnh, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, tính đến hết tháng 6/2023, cả nước có 30.425 HTX, chỉ tính trong 6 tháng đầu năm thành lập mới 1.032 HTX, 133 Liên hiệp HTX và 120.983 THT, trong đó có 76.456 THT nông nghiệp. Tuy nhiên, chưa có nhiều liên kết vùng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX hình thành cụm liên kết ngành. Liên kết kinh tế vùng chưa được mở đường, dẫn dắt mạnh, các chủ thể liên kết quan trọng là doanh nghiệp, là HTX và các tổ chức về kinh tế chưa phát huy được vai trò của mình. Chính những hạn chế này đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động liên kết vùng.

TS Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, dưới tác động tiêu cực của hội nhập, cùng với đặc điểm nền kinh tế còn phát triển manh mún, sản xuất nhỏ lẻ, thiếu liên kết,… đòi hỏi các vùng ở Việt Nam phải có những điều chỉnh thích ứng, đặc biệt là thay đổi về phương thức sản xuất kinh doanh cũ, sản xuất khép kín sang phương thức sản xuất chuỗi liên kết, tận dụng lợi thế nhờ quy mô kinh tế.

Việc liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nâng cao chuỗi giá trị cho nông sản Việt.

TS Vũ Mạnh Hùng, Vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Ban Kinh tế Trung ương) nhìn nhận, Việt Nam là nước nông nghiệp, hơn 70% dân số sống ở vùng nông thôn và canh tác nông nghiệp. Cho nên, trong chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp hiện nay sẽ thấy việc liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, liên kết vùng nguyên liệu, liên kết chuỗi giá trị nông sản cần phải đóng vai trò chủ chốt để sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, ổn định về đầu ra, tạo ra sức cạnh tranh và nâng cao chuỗi giá trị cho nông sản Việt.

Thách thức lớn hiện nay là việc liên kết kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp tuy có cải thiện nhưng vẫn còn khá lỏng lẻo, mờ nhạt, chuỗi giá trị kém hiệu quả và thiếu hành động tập thể. Điều này đòi hỏi cần phải khắc phục những mặt hạn chế và khẳng định hơn nữa vai trò thực chất của liên kết kinh tế trong ngành nông nghiệp.

Theo ông Hoàng Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), chuỗi giá trị sản phẩm liên kết vùng là yếu tố quan trọng đặc biệt để bảo đảm cho liên kết vùng có hiệu quả nhưng lại là khâu chưa được thể hiện rõ trong quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch liên kết vùng hiện nay.

Liên kết vùng gắn với thế mạnh địa phương

Ông Hoàng Anh Tuấn đưa ra giải pháp, cần đẩy mạnh liên kết vùng và hỗ trợ quảng bá, kết nối cung cầu hàng hóa nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, hộ nông dân nắm bắt tình hình cung - cầu thị trường để chủ động tổ chức sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông sản thiết yếu, thủy sản, trái cây, sản phẩm OCOP đóng vai trò quan trọng. Qua đó góp phần ổn định sản lượng, giảm tình trạng dư cung hoặc thiếu cung sản phẩm, hạn chế tổn thất cho nông dân, thích ứng với các diễn biến nhu cầu thị trường.

Ngoài ra, liên kết vùng cũng góp phần hỗ trợ các đơn vị, HTX sản xuất quảng bá thương hiệu, sản phẩm hàng hóa đến người tiêu dùng, các đơn vị phân phối biết để ưu tiên lựa chọn, kết nối, tiêu thụ, từng bước chiếm lĩnh và đứng vững trên thị trường nội địa; đẩy mạnh kết nối với các bộ phận thu mua của các kênh phân phối nước ngoài như Central Group, Aeon, Lotte,… để xuất khẩu hàng hóa.

Để đẩy mạnh liên kết vùng gắn với phát huy thế mạnh địa phương, Bộ Công Thương đề xuất thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng về liên kết vùng. Việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về liên kết vùng thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản chỉ đạo điều hành, các chính sách cụ thể,… sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý và tiền đề để thúc đẩy phát triển liên kết vùng, bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bình ổn thị trường.

TS Trần Thị Hồng Minh cho rằng, bản thân các doanh nghiệp cũng phải tư duy và chuyển đổi mạnh mẽ hơn, theo hướng tăng cường hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp ở các địa phương khác trong vùng. Hội nhập cũng buộc từng địa phương và từng vùng ở Việt Nam phải hiểu rõ thế mạnh, tiềm năng, sự khác biệt của từng vùng, phải có sự sắp xếp, phân công lao động hợp lý trong từng vùng.

Theo TS Vũ Mạnh Hùng, vai trò của liên kết chặt chẽ giữa sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản là cực kỳ cần thiết. Điều này nhằm giúp nông dân thấy được sự cần thiết và tự nguyện hợp tác với nhau. Bản thân các doanh nghiệp cũng muốn ký hợp đồng với nông dân thông qua các tổ chức hợp tác để giảm thiểu chi phí quản lý. Từ đó hình thành các tổ chức hợp tác mới (tổ hợp tác, hợp tác xã), liên doanh, liên kết góp vốn cổ phần của nông dân trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc liên kết nông dân với người kinh doanh, chế biến, buôn bán dọc theo chuỗi giá trị sẽ mang đến cơ hội kinh tế quan trọng cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp, giúp nhiều gia đình thoát nghèo nhờ duy trì được sản xuất bền vững.

 

 

Bình luận

    Chưa có bình luận