Cách đây 78 năm, trong hai ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra quyết định lịch sử: phát động toàn quốc kháng chiến. 20 giờ ngày 19/12/1946, bằng những loạt đại bác từ pháo đài Láng bắn vào các mục tiêu của địch trong thành phố, quân và dân Thủ đô Hà Nội chính thức mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Cách mạng Việt Nam từ thời khắc ấy, đã có những bước chuyển lịch sử.
Từ dã tâm và sự bội ước của thực dân Pháp
Có được nền độc lập đã vô cùng khó, với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cách đây 77 năm, để gìn giữ nền độc lập mới giành được còn khó khăn gấp bội. Thời điểm cuối năm 1945 và đầu năm 1946 là thời điểm các thế lực thù địch trong và ngoài nước dường như chỉ trực chờ cơ hội để lật đổ chính phủ cách mạng non trẻ.
Trên cơ sở phân tích rõ những thuận lợi và khó khăn, Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ quan trọng trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam bộ, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống của nhân dân, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến lâu dài.
Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng đề ra, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện sách lược hòa hoãn linh hoạt, mềm dẻo nhưng kiên quyết đối với cả thực dân Pháp và Tưởng Giới Thạch. Từ 23/9/1945 - 2/1946, ở miền Bắc, ta chấp nhận nhượng bộ cho quân đội Tưởng Giới Thạch và các phần tử tay sai của chúng một số quyền lợi chính trị, kinh tế như: Đặc cách cho một số ghế bộ trưởng trong chính phủ và 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử; nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm; nhận tiêu tiền “quan kim”, “quốc tệ” của quân Tưởng...
Phiên họp bất thường của Chính phủ ngày 4/3/1946 đã cử Hồ Chí Minh và Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Tường Tam phụ trách việc đàm phán với đại diện của Chính phủ Pháp. Ngày 5/3/1946, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng ở làng Canh (Hà Đông), nhất trí tán thành chủ trương hòa để tiến, quyết định tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại bớt một kẻ thù nguy hiểm là chính quyền Tưởng Giới Thạch.
Để nhanh chóng gạt quân Tưởng về nước, đồng thời có thêm điều kiện chuẩn bị tiềm lực, ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với đại diện Chính phủ Pháp (Xanhtơni) bản Hiệp định sơ bộ, chấp thuận cho quân Pháp ra miền Bắc thay quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Tiếp đó, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước nhượng bộ cho Pháp thêm một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa ở Việt Nam. Điều đó thể hiện quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập của đất nước vừa giành được, đồng thời biểu thị nguyện vọng hòa bình của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Tuy vậy, với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã bội ước những vấn đề đã ký kết, lấn tới, tuyên bố: Thi hành mọi biện pháp quân sự nhằm khôi phục quyền thống trị.
Trước tình hình đó, Chính phủ nước ta vẫn kiên trì tìm cách duy trì hòa bình, tránh cuộc chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: ''Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh...”. Tuy nhiên, mọi nỗ lực từ phía Việt Nam đều đã không được lắng nghe.
Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích. Tháng 11/1946, chúng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường... đưa quân chiếm một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng ngày 20/12/1946 quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.
Dã tâm và sự bội ước của quân Pháp đã buộc chúng ta phải có một sự lựa chọn lịch sử. Ngày 18 và 19/12/1946, tại làng Vạn Phúc, Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn ngày 19/12/1946 tại nhà ông Nguyễn Văn Dương, làng Vạn Phúc, Hà Đông, Hà Tây (nay là Hà Nội), được công bố ngày 19/12/1946; ngày này về sau được lấy làm Ngày Toàn quốc kháng chiến.
|
Lời hiệu triệu đồng bào cả nước nhất tề đứng lên đánh quân xâm lược
20 giờ ngày 19/12/1946, Hà Nội đi đầu, nổ súng tấn công quân Pháp, mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Cũng ngay trong đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến, trong đó khẳng định rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”.
Sáng 20/12/1946, Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi khắp cả nước.
Theo nhìn nhận của các chuyên gia, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị lịch sử như một Cương lĩnh kháng chiến, chứa đựng những quan điểm cơ bản về tư tưởng, đường lối chiến tranh nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, truyền thống anh hùng, bất khuất, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; là mệnh lệnh tiến công cách mạng, tạo khí thế để nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu với mọi vũ khí sẵn có cùng một ý chí quyết đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Việt Nam. Lời kêu gọi của Người rất ngắn gọn, súc tích, vạch trần dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, trình bày lập trường và nguyện vọng thiết tha với hòa bình của dân tộc ta. Người cũng đã vạch ra chiến lược chiến tranh nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đồng thời khẳng định cuộc kháng chiến sẽ nhất định đi đến thắng lợi.
Điều đáng nói nhất là, ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc để rồi đã là mệnh lệnh thiêng liêng giục giã quân dân ta anh dũng tiến lên giành thắng lợi.
Tạo dựng thế trận cho kháng chiến lâu dài
Trải qua gần hai tháng liên tục chiến đấu, quân dân ta giành thắng lợi quan trọng: thực hiện tiêu hao, tiêu diệt, giam chân địch trong thành phố, làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, tản cư được phần lớn nhân dân, đưa được hàng ngàn tấn máy móc, thiết bị công nghiệp ra An toàn khu. Tháng 3/1947, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt Bắc - Thủ đô của cuộc kháng chiến.
Điều quan trọng nhất, từ lời hiệu triệu cách đây 78 năm, như nhìn nhận của PGS.TS Nguyễn Đình Lê: Chúng ta càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946). Trước hết, đó là kết quả từ một quá trình đấu tranh đầy cam go, phức tạp, thể hiện bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trước thử thách ngặt nghèo, mà biểu hiện cụ thể là những quyết sách đúng đắn, sáng tạo vừa linh hoạt, mềm dẻo, nhưng cũng rất kiên quyết. Kết quả đem lại là chúng ta từng bước loại bỏ bớt kẻ thù, tranh thủ được thời gian chuẩn bị tiềm lực để bước vào kháng chiến.
Mặt khác, quyết định phát động toàn quốc kháng chiến còn thể hiện rõ sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam, sức mạnh ấy được tạo ra từ truyền thống yêu nước nồng nàn kết hợp với chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, nhờ đó mà ngay từ đầu chúng ta đập tan âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài, mở ra thắng lợi đầu tiên trong cuộc trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975)./.
Hà Anh