Một cuộc chiến tranh bắt buộc

  • 14/02/2019 03:16:00
  • Đại tá, PGS,TS Trần Ngọc Long
  • Chính trị
  • 0

Một nhà sử học đã từng nói: 'Nhắc lại chiến tranh, viết lịch sử chiến tranh là vì một nền thái bình muôn thuở'.

 

Ngày 17/2/1979, quân và dân Việt Nam buộc phải cầm súng chiến đấu, tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống lại cuộc tiến công của hơn 60 vạn quân và nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại đến từ bên kia biên giới.

Phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam không còn là để “dạy cho Việt Nam một bài học” và cũng không còn bó hẹp trong phạm vi các cuộc xung đột biên giới, mà đối phương hướng đến các mục tiêu lớn hơn như: Buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia để đối phó ở biên giới phía Bắc; tàn phá cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế, quốc phòng ở các tỉnh biên giới phía Bắc, gây mất ổn định tình hình chính trị - xã hội, làm cho Việt Nam suy yếu về mọi mặt...

Cuộc chiến diễn ra trong thời gian ngắn (17/2 - 18/3/1979), tuy nhiên quy mô lại rất lớn, lực lượng của đối phương tiến công đồng loạt, ồ ạt trên toàn tuyến biên giới với nhiều trọng điểm, chiều sâu trung bình từ 10 đến 20km, có nơi vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam tới 40 - 50km như  thị xã Cao Bằng, Tài Hồ Xìn, phố Lu... Rõ ràng đây là một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, có tính toán chứ không còn là những cuộc xung đột vũ trang xâm lấn biên giới thuần túy và cuộc chiến mà quân và dân Việt Nam tiến hành để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc rõ ràng là một cuộc chiến tranh vệ quốc bắt buộc.

Và như nhiều người đã biết, sau gần một tháng đánh chiếm nhiều địa bàn trọng yếu và tàn phá hạ tầng cơ sở kinh tế, văn hóa ở các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam, trước sức ép phản đối kịch liệt của dư luận trong nước, quốc tế và bị tổn thất nặng nề; để khỏi bị sa lầy trong cuộc chiến, ảnh hưởng nhiều đến Chương trình 4 hiện đại hóa, ngày 5/3/1979 quân xâm lược buộc phải tuyên bố rút ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Với mong muốn có hòa bình và củng cố tình hữu nghị giữa nhân dân 2 nước, Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho quân và dân trên tuyến biên giới phía Bắc ngừng mọi hoạt động tiến công quân sự để cho đối phương được rút quân và phương tiện chiến tranh về nước trong yên ổn. Tuy nhiên, trên đường rút họ vẫn tiếp tục gây tội ác, phá hoại nhiều cơ sở kinh tế, công trình văn hóa... tại các tỉnh biên giới của Việt Nam (san bằng 26 thị trấn và các thị xã Cao Bằng, Lào Cai, Lạng Sơn; bóc dỡ 42km ray trên tuyến đường sắt Phố Lu - Lào Cai, phá máy móc hầm mỏ Apatit Cam Đường, mỏ Mănggan Trà Lĩnh; phá 72 cầu cống, gài mìn khắp nơi gây sát thương cho bộ đội và nhân dân các tỉnh biên giới)...

Đến ngày 18/3/1979, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam xem như đã kết thúc trên danh nghĩa. Sở dĩ nói là trên danh nghĩa bởi thực tế đến thời điểm đó họ vẫn chiếm đóng trái phép một số nơi thuộc lãnh thổ của Việt Nam và liên tục pháo kích vào lãnh thổ Việt Nam. Chưa dừng lại ở đó, với thủ đoạn “kỳ tuyến bạt điểm” (cưỡi lên biên giới, dùng sức mạnh quân sự đánh chiếm từng điểm cao trên đất đối phương), họ tiếp tục và thường xuyên gây ra các cuộc xung đột lấn chiếm biên giới. Đỉnh điểm là vào năm 1984, đối phương liên tiếp mở nhiều đợt tiến công quy mô lớn vào các chốt, các điểm tựa phòng ngự của bộ đội ta ở huyện Vị Xuyên thuộc tỉnh Hà Tuyên.

Vị Xuyên từ một địa bàn chỉ được xác định là hướng thứ yếu trong cuộc tiến công xâm lược Việt Nam đã trở thành một mặt trận nóng bỏng và vô cùng khốc liệt. Cho đến  cuối năm 1988, các hoạt động pháo kích sang đất Việt Nam mới ngớt. Đầu năm 1989 họ mới chịu rút khỏi 20 điểm lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam tại khu vực Bắc Vị Xuyên; đồng thời dừng các hoạt động lấn chiếm trên toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc. Đáng chú ý là thời điểm này trùng với thời điểm những đơn vị quân tình nguyện Việt Nam cuối cùng cũng rút khỏi Campuchia.

Dâng hoa tại Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên. Ảnh: Thành Công

Trước tình cảnh Tổ quốc lâm nguy, chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm, thêm một lần nữa, quân và dân Việt Nam đã buộc phải cầm súng chiến đấu khi mà không còn sự lựa chọn nào khác để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mình. Hay nói một cách khác, quân và dân Việt Nam đã phải tiến hành một cuộc chiến tranh bắt buộc để bảo vệ Tổ quốc.

Tháng Hai năm 1979, hướng về biên giới phía Bắc, cả dân tộc đã kết thành một khối thống nhất vững bền, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ý thức về chủ quyền quốc gia đã trở thành mạch nguồn ngấm sâu vào ý chí quyết tâm chiến đấu của toàn quân và toàn dân...

Dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, sống thủy chung có trước, có sau trên tinh thần của đạo lý “uống nước nhớ nguồn”; đất nước Việt Nam vừa bước ra từ cuộc chiến tranh chống xâm lược của đế quốc phương Tây, trên mình còn mang đầy thương tích, lại đang phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của tập đoàn Ponpot-Iengxari ở biên giới Tây Nam nên không mong muốn có chiến tranh và luôn tìm mọi cách để cho điều đó không xảy ra. Mặc dù vậy, một khi Tổ quốc bị lâm nguy, chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm; nền độc lập bị đe dọa thì tất thảy đều nhất tề đứng lên, sẵn sàng xả thân vì sự toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà.

Tháng Hai năm 1979, hướng về biên giới phía Bắc, cả dân tộc đã kết thành một khối thống nhất vững bền, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ý thức về chủ quyền quốc gia đã trở thành mạch nguồn ngấm sâu vào ý chí quyết tâm chiến đấu của toàn quân và toàn dân; vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của chế độ mới; vào sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân và thế trận chiến tranh nhân dân vững vàng nơi tuyến đầu của Tổ quốc. Bằng sức mạnh tổng hợp và niềm tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến, quân và dân các tỉnh biên giới phía Bắc đã kiên cường chiến đấu, đánh trả quyết liệt, ngăn chặn, sát thương và tiêu diệt nhiều binh lực của quân xâm lược. Trên hầu hết các hướng tiến công, quân xâm lược đã bị chặn lại, không thể thực hiện được ý định tiến công nhanh như kế hoạch đã xác định.

Có thể thấy, trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc (17/2 - 18/3/1979) và cuộc chiến chống lấn chiếm biên giới (3/1979 - 1989), nhân dân các dân tộc ở các tỉnh biên giới phía Bắc đã không quản hiểm nguy, kiên cường trụ bám bản làng; kề vai sát cánh với các đơn vị vũ trang, vừa phục vụ chiến đấu, vừa trực tiếp tham gia chiến đấu, tạo nên bức tường thành ngăn chặn các cuộc tiến công của quân  xâm lược.

Khó có thể nói hết tinh thần chịu đựng khó khăn gian khổ, hiểm nguy và hy sinh mà quân và dân các tỉnh biên giới phía Bắc phải chịu đựng trong khoảng thời gian này. Sống và chiến đấu trong điều kiện chiến sự ác liệt, kéo dài ngày, địa hình hiểm trở, liên tục bị pháo kích vùi dập, có ngày chỉ riêng mặt trận Vị Xuyên đã phải hứng chịu 50.000 viên đạn pháo và đương đầu chống chọi với 7 đợt tiến công của quân địch. Bộ đội phải chịu đựng khổ cực, thiếu thốn; ở một số mặt trận có những thời điểm mỗi ngày, một chiến sỹ chỉ được phát 3 nắm cơm với cá khô và muối rang; 3 người đựợc cấp một can nước 5 lít dùng cho mọi sinh hoạt. Đời sống thiếu thốn cực khổ như vậy nhưng lực lượng giữ chốt vẫn vượt lên tất cả, kiên cường trụ bám đánh địch, giữ vững trận địa. Họ không những giữ vững được trận địa, mà còn liên tục tổ chức các trận phản công quân địch quyết giành lại những vị trí đã mất. Phía sau họ, cả nước hừng hực khí thế sục sôi hướng về dải đất biên cương với niềm tin và sự chung tay, góp sức; phía sau họ là cả một thế trận lòng dân vững chắc mà không một thế lực hay kẻ thù nào có thể phá vỡ nổi.

 40 năm đã trôi qua nhưng nỗi đau của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc để lại vẫn còn đó. Suốt một dải đất biên cương vẫn đầy rẫy những dấu tích chiến tranh; nhiều bãi mìn vẫn chưa được gỡ hết, cái chết vẫn luôn rình rập. Cho đến nay vẫn chưa có con số thống kê chính xác những tổn thất về người và của của quân và dân ta trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và chống địch lấn chiếm ở biên giới phía Bắc. Tuy nhiên, chỉ thống kê ở một mặt trận thôi cũng đủ thấy sự khốc liệt của cuộc chiến và những đau thương, mất mát. Để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, chỉ riêng tại mặt trận Vị Xuyên đã có gần 5.000 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, trong đó mới chỉ có hơn 1.700 hài cốt được tìm thấy, còn lại hơn 3.000 hài cốt vẫn nằm rải rác đâu đó trong các hốc đá, vùi dưới gốc cây bên các sườn núi cheo leo cho đến nay vẫn chưa thể nào tìm và lấy ra đựợc.

Nhắc lại những sự kiện, những con số đau buồn không phải để “đào bới” và gặm nhấm quá khứ, mà là như một nhà sử học nào đó đã từng nói: “Nhắc lại chiến tranh, viết lịch sử chiến tranh là vì một nền thái bình muôn thuở”.

Bài viết của Đại tá, PGS,TS Trần Ngọc Long - Nguyên Phó Viện trưởng Viện LSQSVN

 

Để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, chỉ riêng tại mặt trận Vị Xuyên đã có gần 5.000 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, trong đó mới chỉ có hơn 1.700 hài cốt được tìm thấy, còn lại hơn 3.000 hài cốt vẫn nằm rải rác đâu đó trong các hốc đá, vùi dưới gốc cây bên các sườn núi cheo leo cho đến nay vẫn chưa thể nào tìm và lấy ra đựợc.


 

 

Bình luận

    Chưa có bình luận