Vấn đề đặt ra là cán bộ công đoàn ở công ty, doanh nghiệp đó có thực sự dám lên tiếng bảo vệ người lao động khi quyền lợi của người lao động bị xâm phạm hay không?
Đại biểu Quốc hội đặt vấn đề khi khi thảo luận về dự án Luật Công đoàn (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 7, sáng nay (18/6).
“Tiếng nói của công đoàn trong DN còn mờ nhạt”
Đại biểu Nguyễn Phi Thường (đoàn Hà Nội) đề nghị cần quy định rõ hơn về trách nhiệm và quyền hạn của công đoàn cơ sở. Bởi vì công đoàn cơ sở có một vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động hệ thống công đoàn, là nơi trực tiếp triển khai, cụ thể hoá các nghị quyết, chiến lược.
Nhấn mạnh công đoàn cơ sở có mạnh thì tổ chức công đoàn mới mạnh, ông Nguyễn Phi Thường cho rằng, thực tế cho thấy hoạt động công đoàn cơ sở thời gian vừa qua có nhiều lúng túng, kém hiệu quả, vị thế, tiếng nói của công đoàn trong DN còn mờ nhạt.
Những tồn tại, hạn chế đó do nhiều nguyên nhân, nhưng theo ông, trong đó có nguyên nhân chưa có quy định pháp luật cụ thể rõ ràng cho công đoàn cơ sở - là định hướng, dẫn dắt, tạo điều kiện thuận lợi trong triển khai. Việc quy định chung chung quyền hạn, trách nhiệm cho tất cả các cấp công đoàn và các loại hình công đoàn cơ sở như dự thảo là chưa thật hợp lý và chưa thật khoa học.
Mặt khác, cùng với chương riêng, mục riêng cho công đoàn cơ sở, thì cần tách riêng trách nhiệm quyền hạn của công đoàn cơ sở ở khu vực công và khu vực tư vì có đặc thù khác nhau.
Đánh giá quy định về quyền, trách nhiệm của công đoàn là tương đối đầy đủ, nhưng ông Nguyễn Phi Thường nhấn mạnh, điều quan trọng hơn là cần cho công đoàn cơ chế thực thi được các quyền và trách nhiệm đó.
“Thực tế hiện nay, công đoàn cơ sở được ví như một cậu bé tí hon nhưng đang khoác trên mình chiếc áo quá lớn. Cán bộ công đoàn cơ sở đều hưởng lương từ DN, luôn chịu sức ép từ người sử dụng lao động. Điều này rất khó tạo ra sự bình đẳng. Vì vậy cần thiết cụ thể cơ chế này bằng pháp luật để công đoàn độc lập hơn với người sử dụng lao động” – ông Nguyễn Phi Thường nêu quan điểm và lưu ý cần tạo sự độc lập về tổ chức, chủ động về tài chính và chính sách bảo vệ cán bộ công đoàn.
Ông đề xuất cho phép sử dụng lao động hợp đồng làm cán bộ chuyên trách công đoàn cơ sở; quy định DN từ 1.000 lao động trở lên có ít nhất 1 cán bộ công đoàn chuyên trách. Cùng với đó xây dựng thang lương, bảng lương phù hợp để khuyến khích, thu hút, tạo động lực cho cán bộ công đoàn toàn tâm, toàn ý thực hiện nhiệm vụ từ nguồn tài chính của công đoàn cấp trên.
Còn theo Đại biểu Nguyễn Hữu Thông - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Bình Thuận, vấn đề đặt ra là cán bộ công đoàn ở trong công ty, doanh nghiệp (hưởng lương từ chủ sử dụng lao động) đó có thực sự dám lên tiếng bảo vệ người lao động khi quyền lợi của người lao động bị xâm phạm hay không?
“Và thực tiễn thời gian qua, chúng ta đã thống kê được có bao nhiêu vụ việc khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tại các công ty, doanh nghiệp mà tổ chức công đoàn tại đây đã đứng ra đại diện bảo vệ được cho người lao động hay chưa? Hiệu quả như thế nào?” - ông nêu câu hỏi.
Do đó, đại biểu đề nghị tiền lương, tiền thưởng và các khoản phụ cấp khác đối với cán bộ công đoàn chuyên trách ở các công ty, doanh nghiệp nên lấy từ kinh phí từ của công đoàn cấp trên để chi trả, để cán bộ công đoàn toàn tâm, toàn ý thực hiện nhiệm vụ của mình là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tại công ty, doanh nghiệp đó.
Quản lý, sử dụng minh bạch tài chính công đoàn
Nhiều ý kiến tán thành việc quy định “Kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động”. Đây là nội dung đã thực hiện ổn định, lâu dài, không phát sinh nhiều vướng mắc trên thực tế.
Ủng hộ quy định trên, Đại biểu Nguyễn Phi Thường (đoàn Hà Nội) cho rằng đây là điều kiện tiên quyết để công đoàn chủ động độc lập hơn trong tổ chức và hoạt động tại cơ sở.
Tuy nhiên, theo ông, nên giao Chính phủ thống nhất quy định nguyên tắc thu, quản lý, sử dụng nguồn tài chính công đoàn. Việc này giúp công tác quản lý nhà nước về tài chính chặt chẽ, minh bạch, hiệu quả hơn, tránh thất thoát, lãng phí. Đồng thời khắc phục được tình trạng chủ DN can thiệp quá sâu vào hoạt động thu, chi tài chính công đoàn.
Liên quan đến phân định sử dụng kinh phí công đoàn, Chính phủ đề xuất 2 phương án. Cụ thể, phương án 1 giao Chính phủ quy định cụ thể. Phương án 2: Xác định cụ thể công đoàn cấp trên sử dụng 25%, công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp sử dụng 75%.
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Bình Thuận đồng tình với phương án 2. Vì việc phân định sử dụng kinh phí công đoàn giữa công đoàn cấp trên với công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp là vấn đề quan trọng, thể hiện sự công khai, minh bạch của việc quản lý, sử dụng tài chính công đoàn.
Tuy nhiên, việc đề xuất tỷ lệ cần bám sát tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW là “Rà soát, sửa đổi cơ chế quản lý tài chính, nguồn kinh phí công đoàn bảo đảm quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch và nâng cao hiệu quả”, cũng như bám sát thực tế hoạt động của công đoàn các cấp và dự liệu các vấn đề phát sinh trong thời gian tới.
Đồng thời, ông cho rằng không nên quy định cứng “công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được phân phối 75%” hay “công đoàn cấp trên quản lý, sử dụng 25%” mà nên quy định theo hướng “tối thiểu 75%” và “tối đa 25%” để bảo đảm linh hoạt trong điều tiết tổng thể của cả hệ thống, tùy theo quy mô của tổ chức công đoàn hoặc theo địa bàn.
Đồng quan điểm, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Hải Dương khẳng định việc quy định cụ thể tỷ lệ phân phối kinh phí công đoàn là cần thiết, nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong việc sử dụng tài chính công đoàn.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho việc tăng cường bố trí nguồn kinh phí công đoàn cho các hoạt động của công đoàn cơ sở - là nơi trực tiếp chăm lo cho đời sống của người lao động, theo bà, nên có sự linh hoạt trong việc quy định tỷ lệ phân bổ kinh phí công đoàn, không quy định cứng tỷ lệ 25% và 75% mà chỉ nên quy định đó là tỷ lệ “tối thiểu” và tỷ lệ “tối đa”.
Theo VOV.VN