Tối ngày 26/10, Hội thảo quốc tế về Biển Đông diễn ra tại TP.HCM đã bế mạc sau 4 phiên thảo luận chính và 1 bài phát biểu trực tuyến của đại diện Cơ quan đối ngoại EU trong ngày làm việc thứ hai.
Chuyển đổi xanh trong hợp tác khai thác năng lượng biển
Tại phiên thảo luận thứ 5, các học giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác giữa các lực lượng Cảnh sát biển ở khu vực. Hầu hết đều bày tỏ quan ngại sâu sắc về các hoạt động “vùng xám”, một số hoạt động đơn phương của tàu hải cảnh Trung Quốc trên Biển Đông thời gian gần đây. Các nước nhỏ và vừa nên đẩy mạnh hợp tác, tương tác với nhau, hành động nhất quán, đoàn kết dựa trên luật pháp quốc tế để tạo sức mạnh tập thể; khuyến nghị thể chế hoá Diễn đàn Cảnh sát biển ASEAN. Một số ý kiến cho rằng, các nước trong khu vực cần thống nhất chuẩn mực của tàu Cảnh sát biển, hợp tác chia sẻ chuyên môn về thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ an toàn môi trường biển và duy trì trật tự trên biển, nâng cao kỹ năng và sự chuyên nghiệp của cảnh sát biển.
Thảo luận về “Thời điểm quyết định: Năng lượng truyền thống hay năng lượng tái tạo?” trong phiên thứ 6, các học giả quan tâm việc phát triển điện gió ngoài khơi, chuyển đổi năng lượng và khai thác tài nguyên đất hiếm. Theo đó, việc chuyển đổi xanh và bền vững trong khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng, tài nguyên biển là xu hướng tất yếu. Các nước phải cân bằng giữa khai thác và bảo tồn hệ sinh thái biển, góp phần đạt được mục tiêu thứ 7 của các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDGs) vào năm 2030 và mục tiêu của COP26 về phát thải ròng bằng không (net-zero) vào năm 2050.
Hầu hết đại biểu đánh giá cao tiềm năng điện gió của Việt Nam với vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn và tài nguyên đất hiếm đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Có ý kiến khuyến nghị về việc khai thác đồng bộ năng lượng truyền thống và năng lượng tái tạo, chuyển đổi năng lượng truyền thống thành năng lượng xanh thông qua sử dụng công nghệ và khả năng tích trữ CO2.
Chia sẻ bài học kinh nghiệm thu hút đầu tư điện gió ngoài khơi, đại biểu cho rằng, cần có khuôn khổ thể chế nhất quán, tin cậy, bớt thủ tục hành chính, cập nhật thông tin và sự tham gia của người dân. Việc khai thác điện gió ngoài khơi cũng cần chú ý quy định của UNCLOS 1982 liên quan đến khu vực an toàn 500 mét và các biện pháp phù hợp để bảo đảm an toàn giao thông hàng hải.
Tham dự Hội thảo khoa học, PGS.TS Nguyễn Xuân Huy, Trưởng Phòng thí nghiệm tính toán mô phỏng Khoa Kỹ thuật địa chất và dầu khí – Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia TP.HCM cho biết: trong các nước ASEAN, Việt Nam hiện đứng thứ hai về trữ lượng dầu khí, chỉ sau Indonesia. Nước ta có khí hậu nhiệt đới nên việc phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch rất tốt, đặc biệt là khu vực Biển Đông với tốc độ gió rất cao, có nhiều tiềm năng phát triển điện gió: "Ở Việt Nam, từ Vũng Tàu đi ra ngoài 30-40 cây số thì mực nước biển vẫn dưới 50 mét nên phát triển điện gió rất tốt, khu vực gió rất nhiều. Cho nên đó là thuận lợi, Việt Nam hiện chỉ sau Trung Quốc về phát triển điện gió ngoài khơi. Ở châu Á - Thái Bính Dương, hiện nay Việt Nam đi đầu trong phát triển năng lượng tái tạo, tuy nhiên sự phát triển quá nhanh dẫn tới sự cố như tắc nghẽn lưới điện, cho nên phải làm sao hài hòa lại".
Chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế không thể tách rời
Trong bài phát biểu trực tuyến tại Hội thảo, bà Paola Pampaloni, quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á và Thái Bình Dương, Cơ quan Đối ngoại EU (EEAS) cho rằng: chủ nghĩa đa phương tiếp tục là công cụ hiệu quả nhất trong quan hệ quốc tế, có lợi cho tất cả, để các nước có thể hợp tác với nhau giải quyết tranh chấp và đạt được các mục tiêu chung.
Theo bà Paola Pampaloni, EU có lợi ích chiến lược và kinh tế sống còn gắn liền với an ninh không gian biển và sự thịnh vượng của các quốc gia ven biển Đông. EU phản đối mạnh mẽ bất cứ hành vi nào làm gia tăng căng thẳng và làm suy yếu trật tự dựa trên luật lệ. Bà Pampaloni khẳng định Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là “ngọn đèn dẫn đường”, định hướng cho giải quyết hoà bình các tranh chấp tại khu vực. Bên cạnh đó, EU ủng hộ tiến trình đàm phán do ASEAN dẫn dắt nhằm hướng tới một bộ quy tắc ứng xử COC hiệu quả, thực chất và ràng buộc pháp lý, tôn trọng lợi ích của bên thứ ba, phù hợp với luật pháp quốc tế. EU đã và đang tăng cường hợp tác với ASEAN và các nước thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam, trong các lĩnh vực như nâng cao năng lực, tăng cường nhận thức không gian biển và tăng cường hiện diện trên biển.
Phiên thứ 7 về “Cơ sở hạ tầng thiết yếu: Ý nghĩa chiến lược mới của công nghệ” tập trung đánh giá tầm quan trọng và tính chống chịu của cơ sở hạ tầng dưới biển, đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng cường an ninh. Nhiều ý kiến cho rằng mọi quốc gia dù có hay không có biển thì đều phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng dưới đáy biển, trong đó có hệ thống cáp ngầm để kết nối và truyền tải thông tin, dữ liệu. Tuy nhiên, các vùng biển thuộc khu vực Châu Âu, Trung Đông và Châu Á, bao gồm Biển Đông, đều từng xảy ra các vụ gián đoạn cáp ngầm hoặc hệ thống đường ống dẫn dầu. Các học giả cho rằng các quốc gia cần đặt an ninh cơ sở hạ tầng đáy biển là cơ sở hạ tầng thiết yếu, ở mức ưu tiên tương đương với an ninh kinh tế, quốc phòng; cần có khuôn khổ hợp tác ở cấp khu vực và quốc tế để xây dựng, duy trì và bảo vệ.
Trong phiên 8 “Tiếng nói của thế hệ kế cận”, 5 diễn giả trong chương trình Lãnh đạo trẻ của Hội thảo từ Australia, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Tổ chức quốc tế Quản lý Tổng hợp Bền vững Biển Đông Á (PEMSEA) cho rằng, để đạt được hòa bình và ổn định trên Biển Đông, các quốc gia trong khu vực phải tăng cường tôn trọng luật pháp quốc tế; sớm hoàn thành COC. Đặc biệt là đẩy mạnh hợp tác với nhau cũng như với các quốc gia ngoài khu vực để cùng giải quyết các mối quan tâm chung về phát triển năng lượng sạch, thúc đẩy nghiên cứu khoa học biển, phòng chống nước biển dâng, bảo vệ hệ sinh thái biển.
Phát biểu bế mạc Hội thảo, TS. Nguyễn Hùng Sơn – Phó Giám đốc Học viện Ngoại giao đánh giá Hội thảo đã chỉ ra những tiềm năng to lớn của biển và đại dương, đề xuất nhiều cơ chế và ý tưởng hợp tác sáng tạo để hiện thực hoá tiềm năng của biển; cho thấy sự cần thiết phải duy trì môi trường hoà bình, tăng cường đối thoại, hợp tác để nâng cao hiệu lực của luật pháp quốc tế, các cơ chế hợp tác đa phương, giảm bớt các hành động đơn phương, qua đó “thu hẹp vùng biển xám”. Đặc biệt, TS. Nguyễn Hùng Sơn nhấn mạnh cần hướng tới tương lai, xây dựng đội ngũ chuyên gia, nhà lãnh đạo trẻ khu vực quan tâm, hiểu biết, có tinh thần đối thoại và hợp tác.
Ngọc Xuân/VOV-TPHCM