Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng, trọng tâm của quản lý nợ công là cơ cấu nợ và giá trị chịu rủi ro, chứ không phải quy mô nợ.
Nợ công của Việt Nam năm 2021 tương đương 157 tỷ USD
Theo Bộ Tài chính, tỷ lệ nợ công/GDP có xu hướng giảm trong 6 năm qua, từ mức 62,2% năm 2016 về 43,1% GDP năm 2021. Với quy mô GDP năm 2021 là 368 tỷ USD, mức nợ công của Việt Nam năm 2021 tương đương 157 tỷ USD.
Nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương cũng đang giảm. Cụ thể, nợ Chính phủ giảm từ 51,7% GDP năm 2017 xuống còn 39,1% GDP năm 2021, tương đương gần 144 tỷ USD. Nợ Chính phủ bảo lãnh giảm từ 9,1% GDP năm 2017 xuống còn 3,8% GDP năm 2021, tức là gần 14 tỷ USD. Nợ chính quyền địa phương giảm từ 1,1% GDP năm 2017 xuống còn 0,6% năm 2021. Còn nợ nước ngoài của quốc gia giảm từ 49% GDP năm 2017 xuống còn 38,4% năm 2021.
Về cơ cấu nợ, nợ vay trong nước lại tăng đáng kể, chiếm 67,2% dư nợ Chính phủ, tương đương 2,2 triệu tỷ đồng hết 2021, còn nợ nước ngoài có xu hướng giảm dần.
Tại hội thảo về kinh nghiệm quốc tế trong cải cách công tác quản lý nợ công diễn ra ngày 23/8, ông Francois Painchaud, Đại diện thường trú của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam đánh giá, thời gian qua, việc quản lý nợ công của Việt Nam đã đạt nhiều kết quả, như tỉ lệ nợ/GDP của Việt Nam đã giảm từ mức trên 60% vào năm 2017 xuống còn trên 40% vào năm 2021 nhờ các chính sách tài khóa thận trọng.
Tuy nhiên, ông Francois Painchaud cho rằng, thời gian tới, quản lý nợ công tại Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn vì quản lý nợ công còn mang tính phân tán cao. Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) là cơ quan đầu mối được giao quản lý chung nhưng các hoạt động khác vẫn được thực hiện quản lý ở các cơ quan khác, như nợ trong nước được quản lý ở Kho bạc Nhà nước, Vụ Ngân sách…
“Điều này sẽ dẫn đến thiếu nhất quán trong việc quyết định cũng như phát tín hiệu ra thị trường, gây ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách. Do đó, các cơ quan quản lý cần phải sắp xếp lại thể chế cũng như quy chế trong quản lý nợ để tiến tới mục tiêu thống nhất quản lý nợ”, đại diện IMF nhận định.
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi, Việt Nam hiện nay có chính sách quản lý nợ công gắn với chính sách tài khóa và tiền tệ. Tuy nhiên, chính sách quản lý nợ công mới chủ yếu tập trung vào huy động các nguồn vay ưu đãi, nghiệp vụ theo thông lệ quốc tế chưa thực hiện đầy đủ như giám sát và đánh giá tất cả các khoản vay và giao dịch nợ để bảo đảm phù hợp với các thông số rủi ro đề ra trong chiến lược nợ; giám sát rủi ro toàn bộ danh mục nợ chính phủ, kết nối giữa chính sách quản lý ngân quỹ và quản lý nợ công, cơ sở dữ liệu chia sẻ chung về nợ công…
Cần thiết lập cơ quan chuyên trách về quản lý nợ
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc tổ chức mô hình cơ quan quản lý nợ cũng hết sức đa dạng, có nhiều cách tiếp cận, phương thức quản lý nợ khác nhau. Nhiều quốc gia đã lựa chọn thiết lập cơ quan quản lý nợ công (DMO) để tập trung các chức năng quản lý nợ nhằm đạt đến trình độ chuyên nghiệp hóa cao.
Các quốc gia OECD chọn thiết lập một cơ quan quản lý nợ độc lập (Áo, Phần Lan, Ireland, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Đức, Hungary và Anh), một số quốc gia khác thiết lập văn phòng DMO riêng biệt nhưng hoạt động dưới Bộ Tài chính (như Úc, Bỉ, Canada, Pháp, Hà Lan, New Zealand, Ba Lan và Mỹ).
Các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á cũng đã thiết lập văn phòng DMO riêng biệt như Thái Lan, Philippines, Indonesia. Mục tiêu chung trong việc hình thành DMO là đảm bảo thực hiện nhất quán, đồng bộ, kiểm soát toàn diện rủi ro phát sinh từ việc vay nợ, thực hiện các chính sách quản lý nợ, kế hoạch vay trả nợ của Chính phủ.
Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi cho biết, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 thành nước thu nhập trung bình cao, xếp hạng tín nhiệm quốc gia lên mức đầu tư. Trong bối cảnh vị thế, vai trò kinh tế của Việt Nam có nhiều thay đổi tích cực, khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi giảm đi, danh mục nợ sẽ phát sinh thêm nhiều loại rủi ro, đòi hỏi có sự quản lý đồng bộ, thống nhất, chuyên nghiệp hóa để tăng cường hiệu quả hoạch định chính sách và đạt được cơ cấu chi phí - rủi ro nợ công phù hợp với mục tiêu quản lý đặt ra.
“Việc nghiên cứu phát triển mô hình DMO với đầy đủ chức năng theo thông lệ quốc tế phù hợp với trình độ phát triển nhu cầu quản lý của Việt Nam trong từng giai đoạn là cần thiết. Song song với cải cách thể chế, sẽ tiếp tục hoàn thiện công cụ quản lý nợ, cơ chế kiểm soát rủi ro đảm bảo dư địa tài khóa và chính sách để phấn đấu mục tiêu nêu trên”, Thứ trưởng Chi thông tin.
Còn theo ông Mike Williams, Chuyên gia Độc lập của IMF, thông lệ tốt của quốc tế là thành lập cơ quan chuyên trách về quản lý nợ. Các nước lại thành lập DMO nhằm đảm bảo tính rõ ràng và minh bạch trong quản lý nợ công. Theo đó, DMO tập trung vào nhiệm vụ quản lý nợ; tạo điều kiện để tách biệt giữa hoạch định chính sách và thực thi chính sách. Việc thành lập DMO cũng góp phần nâng cao năng lực, hiệu suất và hiệu quả quản lý nợ công theo hướng chuyên môn, chuyên nghiệp, tăng cường sự tập trung, tránh những quyết định thiếu nhất quán và linh hoạt hơn trong cơ chế tiền lương để giúp tuyển dụng và giữ chân cán bộ.
Tuy nhiên, ông Mike Williams cho rằng, thiết lập DMO mới chỉ là bước khởi đầu, có nhiều mối quan hệ với bên ngoài cần được quản lý. Do đó, “quan trọng là vạch rõ nhiệm vụ và làm rõ vai trò, trách nhiệm, chức năng của các cơ quan chuyên trách quản lý nợ và các cơ quan ban hành chính sách nhưng vẫn có cơ chế để phối hợp một cách hiệu quả”.
Chia sẻ về nội dung này, ông Lars Jessen, Chuyên gia Trưởng về Nợ của Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, trọng tâm của quản lý nợ công là cơ cấu nợ và giá trị chịu rủi ro, chứ không phải quy mô nợ. Chính sách kinh tế vĩ mô và quản lý nợ có mục tiêu, công cụ khác nhau, điều quan trọng là phải tách biệt các vai trò và trách nhiệm của các bên nhưng đồng thời phải đảm bảo sự phối hợp.
Theo ông Lars Jessen, việc tách biệt giữa quản lý nợ với chính sách tài khoá, tiền tệ tạo điều kiện xác lập mục tiêu rõ ràng cho từng lĩnh vực. Đồng thời, chiến lược quản lý nợ cần nhất quán với các chính sách kinh tế vĩ mô khác./.
Cẩm Tú/VOV.VN