Người anh hùng bên dòng sông Tuyến

Bước lên từ lòng đất với hai bàn tay trắng, Trương Đức Hai tổ chức rà phá bom mìn, khai hoang phục hóa, tạo dựng nên một màu xanh trù phú từ đổ nát hoang tàn.

 

Nằm dọc theo bờ Nam sông Bến Hải từ Đông sang Tây, Gio Linh là huyện đầu cầu giới tuyến Bắc - Nam ở vĩ tuyến 17. Cũng vì vậy mà Gio Linh đã trở thành nơi đối đầu lịch sử giữa hai thế lực cách mạng và phản cách mạng, là nơi để Mỹ ngụy thi thố và thí điểm các loại vũ khí chiến tranh hiện đại cũng như những âm mưu thủ đoạn thâm độc nhất, để đàn áp phong trào cách mạng của quần chúng và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam.

Với sứ mệnh là tiền đồn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hàng ngày phải đối mặt với kẻ thù có tiềm năng kinh tế, tiềm lực quân sự mạnh nhất thế giới và âm mưu, thủ đoạn cũng thâm độc và tàn ác vào loại bậc nhất, nhưng quân và dân huyện Gio Linh vẫn hiên ngang ngẫng cao đầu với câu châm ngôn bất hủ “Nay tuy châu chấu đấu voi, nhưng mai kia voi sẽ lòi ruột ra”. Trong cuộc chiến đấu giữ đất giữ làng, giữ độc lập tự do, góp sức cùng với cả nước đưa giang sơn về một mối, Gio Linh đã trở thành huyện Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và trong một tập thể Anh hùng ấy, đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu cho sự quả cảm kiên trung, của chí thông minh sáng tạo, của tinh thần dũng cảm vô song, mà tên tuổi của họ đã được ghi vào lịch sử Đảng bộ địa phương và được lưu danh trong thiên hạ… Một trong số những người ấy là Trương Đức Hai, một cán bộ xã đội của xã Gio Lễ và Gio Sơn.

Sinh ra và lớn lên ở làng Hải Chữ, xã Trung Hải, huyện Gio Linh- bên bờ Nam sông Bến Hải, một con sông hiền hòa thơ mộng nhưng phải mang số phận đôi bờ cách biệt khi bị khoác vào mình “Dòng sông giới tuyến”. Lớn lên giữa nỗi đau chia cắt bởi Giới tuyến tạm thời nên tuổi thơ anh phải trải qua những năm tháng nhọc nhằn và chứng kiến những tội ác dã man của Mỹ, ngụy đối với làng xóm quê hương. Chính vì vậy mà 16 tuổi anh đã tham gia lực lượng vũ trang nối tiếp truyền thống của cha lên đường đi đánh giặc. Từ một chiến sĩ du kích, đến Trung đội trưởng, xã đội phó rồi xã đội trưởng. Từ tham gia chống càn bảo vệ vùng giải phóng, đến bao vây bắn tỉa, hay nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong vùng địch, vừa xây dựng cơ sở cách mạng, vừa diệt ác trừ gian… Ở đâu, làm gì anh đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Sự xông xáo, nhiệt tình và sự chịu đựng của anh đã được anh em bạn bè đúc kết một câu khá chính xác, rằng “nơi nào khó thì có mặt Hai”.

Nơi nào khó thì có anh Trương Đức Hai

Hơn mười năm cầm súng, lúc bí mật, khi công khai, lúc “xuất quỷ nhập thần”, anh đã làm cho bọn địch nhiều phen bạt vía kinh hồn. Oai phong lẫm liệt là vậy, thế mà giờ đây ngồi đối diện tôi là một Trương Đức Hai hoàn toàn khác, thật bình dị và dễ gần. Nhìn khuôn mặt kiên nghị và sức vóc vạm vỡ, đặc biệt là lúc nào cũng vui cười niềm nở không ai dám nghĩ anh là một Thương binh 2/4 và đã ở tuổi 72. Khi được hỏi về những kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Trước Đức Hai, bọc bạch: “Kỷ niệm thì nhiều lắm, bởi trong cuộc chiến đấu một mất, một còn với kẻ thù ngay trong lòng địch thì không thể thiếu sự đùm bọc, chở che của quần chúng cách mạng, cũng như sự hợp đồng chiến đấu chính xác giữa trên; dưới, trong; ngoài… Nhưng một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất, đó là trận đánh vào Quán Ngang trong chiến dịch tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1972, bởi đây là trận đánh có ý nghĩa rất quan trọng vì không chỉ trong huyện, mà là trận hợp đồng tác chiến trên toàn chiến trường Quảng Trị, với quyết tâm giải phóng hoàn toàn huyện Gio Linh để đưa nhân dân ra khỏi khu tập trung của địch”.

Vậy trận chiến đấu ấy diễn ra như thế nào?  

“Với trách nhiệm là Xã đội trưởng, tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng du kích xã Gio Sơn phối hợp với C4 bộ đội địa phương huyện đánh trực tiếp vào bọn bảo an và lính địa phương quân bảo vệ vòng ngoài của chi khu quân sự. Vậy là trước 2 giờ sáng ngày 30/3, chúng tôi đã bí mật áp sát ổ phục kích của địch nằm chờ lệnh. Lúc này mọi hướng đều yên tĩnh, chỉ có tiếng côn trùng và tiếng muỗi vo ve, thi thoảng có vài quả đạn pháo sáng từ các lô cốt bắn ra vu vơ giữa không gian đầy sương mù bao phủ. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi, đến 4 giờ thì những ánh chớp sáng lóe tiếp đến là tiếng nổ dồn dập ở chi khu quân sự Gio Linh vang lên. Vậy là bộc phá lệnh của bộ đội đặc công Đoàn 31 đã phát hỏa, chúng tôi sung sướng đồng loạt lao lên, nổ súng tiến công. Bọn địch không kịp trở tay, đứa chết, đứa bị thương, những đứa còn lại bỏ chạy tán loạn. Khi chúng tôi cắm lá cờ cách mạng lên trận địa, cũng là lúc bọn địch ở Dốc Miếu, Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn, Bến Sanh, Gio Lễ… bị quân ta tấn công cũng đã bỏ chạy. Vào gần Quán Ngang thì chúng tập hợp nhau lại hơn 3 tiểu đoàn với đủ các sắc lính, chúng phối hợp với lực lượng bộ binh và 6 xe tăng ở Đồi 31 đánh lên phản công, vì vậy trận chiến đấu phải kéo dài đến gần 10 giờ trưa mới kết thúc và tôi đã bị thương nặng trong trận này”.

Anh Trương Đức Hai cùng đồng đội.

Nhưng cuối cùng chúng ta vẫn giành thắng lợi và đã giải phóng hoàn toàn huyện Gio Linh?

Anh hạ thấp giọng: “Đúng vậy”. Anh trả lời tôi mà như muốn tự lật ngược lại trong khoảng không gian và thời gian hai chiều của quá khứ và hiện tại rồi bật lên một câu: “Đằng sau mỗi nụ cười, đều có nỗi đau riêng”. Tôi hiểu sâu sắc được điều anh muốn nói, bởi lẽ ít có mảnh đất nào như mảnh đất này, cát trắng gió lùa, máu lửa đạn bom, thiên nhiên khắc nghiệt là vây, nhưng con người vẫn kiên gan bám trụ, vẫn hiền lành; khẳng khái, kham khổ mà đạo lý, da diết mà nghiêm nghị, gan góc và thủy chung. Cũng chính vì lẽ đó mà anh cứ đau đáu một ước mơ làm sao có tiền để xây một Nhà bia tưởng niệm những đồng chí, đồng đội của anh đã hy sinh trong trận đánh giải phóng Quán Ngang năm 1972. Và mãi cho đến năm 2013, tâm nguyện ấy đã được Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện Gio Linh đồng tình ủng hộ và những đồng tiền quyên góp đầu tiên cho công trình đầy nhân văn và đạo lý này là toàn bộ số tiền thưởng mà anh nhận được khi đón nhận Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Và cũng phải mất gần mười năm ra Bắc, vào Nam để vận động quyên góp để có một Nhà bia tưởng niệm đàng hoàng với giá trị trên 5 tỷ đồng, trong đó ngân sách địa phương đóng góp hơn một nửa. Giờ đây ước nguyện đó đã thành hiện thực- một hiện thực của bao tấm lòng tri ân đã tỏa sáng. Một Nhà bia tưởng niệm các Anh hùng, Liệt sĩ uy nghiêm đã hiển hiện ngay trên chiến trường xưa vừa được khánh thành đúng dịp kỷ niệm 50 năm ngày giải phòng huyện Gio Linh, đây cũng là Công trình hướng tới kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh, Liệt sĩ của huyện. Trong sâu thẳm lòng mình, Trương Đức Hai thường tâm niệm, để có được danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang như hôm nay, trước hết là nhờ sự đùm bọc cưu mang của bà con cô bác, sự hy sinh to lớn của đồng chí đồng đội, của những người đã ngã xuống vì sự bình yên của Tổ quốc. Chính vì vậy mà kể từ khi khởi xướng, đến ngày khởi công xây dựng cho đến khi hoàn thành Công trình Nhà bia tưởng niệm đẹp nhất huyện, anh là người chạy đôn, chạy đáo và cũng luôn có mặt để theo dõi từng đường nét của thiết kế, đôn đốc đảm báo tiến độ… Bây giờ anh lại tiếp tục nuôi ước mơ và đưa ra ý tưởng rằng, đây sẽ là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống Cách mạng cho thế hệ trẻ và cũng là điểm Du lịch Tâm linh khi tour Du lịch Cồn Tiên- Dốc Miếu- Quán Ngang- Đông Hà được khai mở.

Nhà bia tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ tại Quán Ngang.

Trong quá trình tham gia công tác, anh được phân công đi nhiều nơi, chiến đấu trên nhiều mặt trận ở huyện Gio Linh. Từ tham gia bao vây bắn tỉa địch trên cao điểm 31 ở xã Gio Mỹ, đến chiến đấu với bọn thám báo “Dơi, Nhện” ở xã Gio Lễ ngay dưới chân cứ điểm Dốc Miếu hay về “vùng trắng” xã Gio Sơn, nơi tọa độ lửa của B.52 và pháo chùm, pháo khoan từ hạm đội 7. Ở địa bàn nào, công việc gì anh cũng tỏ rõ được ý chí gan dạ và mưu trí, dũng cảm của mình. Đặc biệt là anh rất có tài trong nhận định tình hình địch, nên đã linh hoạt trong các trận đánh, nhất là đánh phản phục kích của bọn thám báo “Dơi, Nhện”, đã nhiều lần anh biến bị động thành chủ động, nhờ vậy mà luôn luôn bảo toàn được lực lượng và giữ được bí mật cho cơ sở. Với vai trò là chỉ huy lực lượng du kích xã Gio Lễ, Gio Sơn, anh đã trực tiếp chiến đấu và tham gia chiến đấu gần trăm trận, bắn cháy và phá hủy nhiều xe tăng, xe bọc thép của địch. Đặc biệt có những lần anh đã cải trang làm sĩ quan thủy quân lục chiến cùng với 2 du kích khác cải trang thành lính gác đờ co rồi ung dung tiến thẳng vào bọn lính địa phương chửi tục và “oánh lộn” với chúng, vì lính thủy quân lục chiến được mệnh danh là “anh cả đỏ” của quân lực Việt Nam công hòa, nên không chỉ lính địa phương sợ, mà các sắc lính khác cũng “kính nễ”. Anh cũng đã nhiều lần cải trang thành lính “Cộng hòa”, lính “thủy quân lục chiến” rồi hiên ngang vào sâu tận hang ổ của địch để tiêu diệt những tên ác ôn khét tiếng có nợ máu giữa ban ngày, mà theo anh đây cũng là một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất của cuộc đời cầm súng.

          Chiến dịch tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1972, giải phóng huyện Gio Linh thắng lợi đã tạo đà, tạo thế cho quân và dân ta tiếp tục chiến đấu và giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị vào ngày mồng một tháng 5 năm 1972. Cũng lúc này, những vết thương trên người của anh đã bắt đầu ổn định và anh  được cấp trên đưa về làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Gio Sơn. Bước lên từ lòng đất với hai bàn tay trắng, trong lúc mọi thứ đều bắt đầu từ con số không. Nhưng với ý chí và bản lĩnh của một người đã từng xông pha trận mạc, cùng với sự chi viện có hiệu quả của trên, Trương Đức Hai một mặt nhanh chóng ổn định cuộc sống của nhân dân, mặt khác tổ chức lực lượng rà phá bom mìn, khai hoang phục hóa, tăng gia sản xuất để ổn định nơi ăn chốn ở cho hàng ngàn người dân từ khu tập trung Quán Ngang và các nơi sơ tán trở về. Tiếp đến là quy hoạch đất đai trồng cây công nghiệp và cây lương thực ngắn ngày để giải quyết lương thực tại chỗ, vừa góp phần cứu đói, vừa tạo dựng nên một màu xanh trù phú từ đổ nát hoang tàn.

          Với những chiến công trong chiến đấu và thành tích trong xây dựng, anh đã được tặng thưởng 6 danh hiệu Dũng sĩ và hàng chục Huân, Huy chương các loại, đặc biệt là đã được Đảng, Nhà nước phong tặng Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng với anh, phần thưởng quý giá nhất vẫn là niềm tin yêu và sự cảm thông của đồng chí, đồng đội và bà con cô bác. Bởi theo anh, trong cuộc chiến đấu để thắng thua với kẻ thù thì rất dễ, nhưng khi đã trở lại cuộc sống đời thường thì làm sao để chiến thắng được chính mình mới là khó. Cho nên, mặc dù còn nhiều vất vả khó khăn bởi thời tiết khắc nghiệt, bão ập lũ tràn, bởi những đồng trợ cấp thương tật và lương hưu ít ỏi, nhưng không vì thế mà kêu ca phàn nàn, ngược lại anh đã nỗ lực vươn lên tự xây dựng cho mình cuộc sống mới để giữ vững phẩm chất Cách mạng của Bộ đội Cụ Hồ.

          Có thể nói, sau một thời oanh liệt của cuộc đời binh nghiệp, là đến những giai đoạn thăng trầm mà sự chịu đựng để vượt qua cũng gay go quyết liệt không kém thời cầm súng. Nhưng với bản lĩnh của một cựu chiến binh đã từng xong pha trận mạc, một Đảng viên trên 50 năm tuổi Đảng dày dạn kinh nghiệm và đã trải qua nhiều thử thách của những giai đoạn thăng trầm, cuối cùng anh vẫn vượt qua  để bây giờ con cái của anh đứa nào cũng học hành thành đạt, có việc làm ổn định và đã có gia đình riêng. Anh thường quan niệm, “vất vả, khó khăn không quan trọng, mà điều quan trọng là phải biết vượt lên để chiến thắng chính bản thân mình”. Đấy chính là cái chất của lẽ sống, của một người từng trải mà tôi cảm nhận được ở Trương Đức Hai- người Anh hùng bên dòng sông Tuyến./.

Phan Sáu

 

Bình luận

    Chưa có bình luận